CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG, THÁCH THỨC VÀ CHIẾN LƯỢC ĐẾN 2020

TS.Vũ Trọng Bình, Ths Đào Đức Huấn, Ths Nguyễn Mạnh Cường

Trung tâm Phát triển nông thôn

Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển NNNT

Phần 1: Thực trạng về sản xuất và chính sách phát triển chăn nuôi

  1. Chăn nuôi tăng trưởng, chính sách đã có những ảnh hưởng tích cực

Trong những năm vừa qua, ngành chăn nuôi luôn giữ mức tăng trưởng cao, bình quân giai đoạn 2001-2006 tăng 8,5%/năm. Giá trị sản xuất chăn nuôi năm 2006 tăng trưởng 7,3% so với năm 2005. Tuy nhiên, năm 2007 chỉ đạt 4,6%, tỷ trọng của ngành tăng 24,1% (giảm 1,4% so với năm 2006). Tổng đàn gia cầm tăng từ 216 triệu con năm 2001 lên 226 triệu con năm 2007, tổng đàn trâu là 2.996.415 con, đàn bò 6.724.703 con.

Biểu đồ: Sản lượng chăn nuôi giai đoạn 2000-2008

(đơn vị: 1000 tấn)

Nguồn: Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2008

Biểu đồ: Sản lượng chăn nuôi giai đoạn 2000-2008 * https://vietfeed.wordpress.com
Biểu đồ: Sản lượng chăn nuôi giai đoạn 2000-2008 * https://vietfeed.wordpress.com

Đánh giá về kết quả phát triển chăn nuôi của Việt nam trong giai đoạn 2001-2008, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã chỉ rõ: những chính sách của Việt nam trong giai đoạn vừa qua đã có những tác dụng tích cực giúp ổn định và phát triển chăn nuôi, trong đó những thành tựu nổi bật đó là:

+ Củng cố và duy trì được hệ thống giống gốc vật nuôi từ trung ương đến một số địa phương;

+ Cải tạo nâng cao tầm vóc đàn bò vàng Việt Nam đáp ứng nhu cầu đàn cái nền cho lai tạo nhân giống bò sữa, bò thịt; các giống lợn, giống gia cầm đã được cải tiến, nâng cao chất lượng đáng kể trong sản xuất.

+ Tăng cường một bước quan trọng về cơ sở vật chất, kỹ thuật và trình độ năng lực của hệ thống nghiên cứu và nhân giống vật nuôi;

+ Cơ cấu chăn nuôi đang chuyển dịch dần sang hướng trang trại và công nghiệp;

+ Bước đầu hình thành ngành công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi và chế biến sữa đạt trình độ, công nghệ tiên tiến;

+ Năng suất và tăng trưởng ngành chăn nuôi trong những năm qua luôn tăng cao năm sau so với năm trước đáp ứng về cơ bản nhu cầu thực phẩm (thịt, trứng) cho tiêu dùng trong nước.

  1. Thực trạng và nhu cầu thực tiễn đối với chính sách

Để phát triển chăn nuôi trong giai đoạn 2001-2010, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi tập trung vào 4 lĩnh vực chính đó là:

–          Chính sách phát triển giống cây trồng, vật nuôi và giống cây lâm nghiệp thời kỳ 2000-2010 (Quyết định số 225/1999/QĐ-TTg ngày 10 tháng 12 năm 1999 và Quyết định số 17/2006/QĐ-TTg ngày 20 tháng 01 năm 2006)

–          Chính sách phát triển chăn nuôi lợn xuất khẩu (Quyết định 166/2001/QĐ-TTg ngày 26 tháng 10 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ)

–          Chính sách phát triển chăn nuôi bò sữa ở Việt nam giai đoạn 2001-2010 (Quyết định 167/2001/QĐ-TTg ngày 26 tháng 10 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ)

–          Chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng mới, mở rộng cơ sở giết mổ chế biến gia súc, gia cầm và cơ sở chăn nuôi gia cầm tập trung, công nghiệp (Quyết định 394/QĐ-TTg ngày 13 tháng 3 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ)

Như vậy, chính sách trong giai đoạn 2001-2010 của Việt nam tập trung vào giải quyết cả 3 lĩnh vực chính đó là: i) sản xuất (giống, chăn nuôi bò sữa, quy hoạch chăn nuôi tập trung…), ii) thị trường (chính sách hỗ trợ xuất khẩu lợn) và iii) chế biến. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, với những bối cảnh mới về sản xuất, thị trường đã dẫn đến những chính sách hiện có không còn phù hợp, cần có những sự thay đổi, đó là:

Đối với chính sách khuyến khích chăn nuôi lợn xuất khẩu: những tác động của các yếu tố khách quan về sự thay đổi thị trường thịt lợn của các nước thuộc Liên Xô cũ, vấn đề dịch bệnh và an toàn vệ sinh thực phẩm trong nước và trên thế giới diễn biến phức tạp…dẫn đến những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu không thể đi vào thực tiễn. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất vẫn là xuất phát điểm của ngành chăn nuôi nước ta nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng còn thấp, chúng ta chưa thực sự có được một ngành chăn nuôi lợn mang tính chuyên nghiệp cao, chăn nuôi nhỏ phân tán chiếm tỷ trọng lớn, chăn nuôi trang trại mới được hình thành phần nhiều mang tính tự phát, thiếu quy hoạch; các chính sách chưa đủ mạnh và đồng bộ, nhất là đất đai, tín dụng và thị trường; năng suất chăn nuôi thấp, giá thành cao, quản lý chất lượng và ATVSTP kém.

Đối với chính sách phát triển chăn nuôi bò sữa: Đây là một trong những chính sách có mục tiêu, nội dung và giải pháp rất phù hợp với tình hình phát triển chăn nuôi bò sữa trong nước thời gian qua, do đó đến nay về cơ bản chương trình phát triển chăn nuôi bò sữa đã đạt được các mục tiêu chính theo các mốc thời gian đề ra. Tuy vậy, thời gian hiệu lực của chính sách không còn nhiều, một số vấn đề về quy hoạch, xác định vùng, đối tượng chăn nuôi, giải pháp giống và kỹ thuật chăn nuôi bò sữa đã trở nên bất cập cần phải có sự điều chỉnh cho phù hợp trong thời gian tới.

Chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng mới, mở rộng cơ sở giết mổ chế biến gia súc, gia cầm và cơ sở chăn nuôi gia cầm tập trung, công nghiệp đã được triển khai đạt kết quả khả quan: hình thành một số mô hình giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm theo phương thức công nghiệp đảm bảo chất lượng và ATVSTP; góp phần phát triển hệ thống chăn nuôi gia cầm trang trại, khôi phục nhanh đàn gia cầm chăn nuôi theo hướng công nghiệp. Tuy nhiên hiệu quả của chính sách này cũng còn hạn chế, do: đối tượng và lĩnh vực đề cập trong chính sách chỉ giới hạn chủ yếu là chăn nuôi gia cầm theo hướng tập trung, công nghiệp; thời gian của các chính sách hỗ trợ như hỗ trợ tín dụng 2 năm đối với các cơ sở giết mổ tập trung công nghiệp là quá ngắn trong khi thói quen tiêu dùng thực phẩm của người dân đối với những sản phẩm qua giết mổ, chế biến công nghiệp chưa có sự thay đổi đáng kể. Quyết định này đến nay không còn hiệu lực.

Chính sách phát triển giống cây trồng, vật nuôi và giống cây lâm nghiệp thời kỳ 2000-2010: chương trình này đã mang lại những kết quả rất tốt về công tác giống vật nuôi, chúng ta đã duy trì được nhiều loại giống gốc vật nuôi có giá trị phục vụ công tác cải tạo và nhân giống phục vụ sản xuất, nhất là thời kỳ chuyển từ nền kinh tế tập trung sang kinh thế thị trường; hệ thống các cơ sở giống vật nuôi cũng nhờ đó mà còn duy trì và phát triển đến ngày nay. Triển khai chương trình giống 2000-2008 đã tăng cường một bước quan trọng để củng cố và từng bước hiện đại hoá hệ thống nghiên cứu, sản xuất giống ở các cơ sở giống TW và một số địa phương; đã chọn tạo và nhập bổ sung một khối lượng giống vật nuôi lớn nhất từ trước tới nay, chưa khi nào trong sản xuất chăn nuôi của Việt Nam có được tập đoàn giống phong phú về chủng loại và cấp loại như hiện nay. Tuy vậy, các giống tốt vẫn chưa được phổ biến rộng khắp trong sản xuất: Một trong những nguyên nhân là chăn nuôi nhỏ lẻ còn chiếm tỷ lệ cao, người nông dân không có thông tin để quan tâm đến chất lượng con giống, trong khi mạng lưới các trạm trại vệ tinh nhân giống và cung ứng giống của các địa phương còn kém phát triển, hiệu quả của công tác quản lý chất lượng giống vật nuôi nói riêng và vật tư chăn nuôi nói chung vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại do hệ thống tổ chức  và vật lực chưa thực sự tương thích với đòi hỏi của thực tiễn sản xuất ngành chăn nuôi.

Phần 2: Những thách thức cho chăn nuôi Việt nam

I. Thách thức trong sản xuất

1.1          Tình hình dịch bệnh trong chăn nuôi

Từ năm 2003, chăn nuôi luôn phải đối mặt với tình hình dịch bênh, điển hình là dịch bệnh cúm gia cầm và dịch tai xanh ở lợn. Dịch cúm trên ra cầm đã xẩy ra trên 57/64 tỉnh thành gây thiệt hại nặng nề trong sản xuất cũng như ảnh hưởng lớn đến thị trường tiêu dùng, giai đoạn 2003-2008 Việt nam phải chi 236 triệu USD trong việc phòng chống cúm gia cầm. Đến nay chúng ta vẫn chăn ngăn chặn và khống chế được dịch bệnh.

Đối với dịch tai xanh, từ năm 2007 đến nay dịch bệnh xẩy ra trên 38 tỉnh thành, năm nào cũng có dịch bệnh xẩy ra, hiện nay chưa có một con số nào thống kê được tổng số ngân sách mà nhà nước phải bỏ ra để hỗ trợ dịch bệnh, nhưng hậu quả của nó thì được thể hiện rất rõ. Năm 2007, dịch bệnh đã xẩy ra trên 13.355 hộ gia đình (trên 14 tỉnh, thành) với gần 30.000 đầu lợn bị tiêu hủy, đến năm 2008, dịch bệnh đã xẩy ra trên 28 tỉnh, thành, số lợn bị tiêu hủy cao gấp 10 lần năm 2007.

Cùng với sự phát triển về quy mô, tình hình dịch bệnh trong chăn nuôi xẩy ra càng nhiều, lây lan nhanh, khó kiểm soát, mức độ thiệt hại mà dịch bệnh gây ra cho ngành chăn nuôi ngày càng lớn. Đó là những thách thức rất lớn mà chúng ta phải đối mặt trong giai đoạn tới.

1.2          Quy mô chăn nuôi nhỏ, thiếu bền vững

Hình thức chăn nuôi manh mún, nhỏ lẻ, hầu hết đều được nuôi ở quy mô hộ gia đình, tận dụng thức ăn thừa, không quan tâm tới công tác tiêm phòng hay phòng chống dịch bệnh theo quy trình của cơ quan thú y. Đó là bức tranh cơ bản của chăn nuôi Việt nam hiện nay.

Theo kết quả khảo sát của chúng tôi tại một số xã trên địa bàn huyện Nam Sách và huyện Chí Linh – Hải Dương cho thấy, hầu hết các hộ chăn nuôi với quy mô nhỏ lẻ hiện nay đều không chủ động tiêm phòng các loại Vaccin theo quy định cho đàn lợn mà chủ yếu dựa vào việc hỗ trợ tiêm phòng của nhà nước, tuy nhiên hiện nay nhà nước chỉ tiến hành tiêm phòng 2 đợt/năm trong khi chu kỳ nuôi một lứa lợn chỉ từ 3,5-4 tháng. Do đó tỷ lệ tiêm phòng không cao, đồng nghĩa với việc dịch bệnh luôn luôn thường trực và khó kiểm soát.

Thời gian gần đây, một số địa phương đã mạnh dạn triển khai xây dựng các khu chăn nuôi tập trung nhằm kiểm soát tốt dịch bệnh, đảm bảo tốt vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm…bước đầu đã mang lại những kết quả đáng khích lệ. Trường hợp xã Thạch Thán (Quốc Oai -Hà Tây, nay thuộc Hà Nội) là một ví dụ. Trước khi chuyển các trại lợn ra xa khu dân cư, Thạch Thán phải đối mặt với nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng. Năm 2005, Đảng ủy, HĐND và HTX nông nghiệp Thạch Thán họp bàn với dân, lựa chọn khu đất rộng 35ha xa khu dân cư thực hiện phương án chuyển đổi. Sau 2 năm triển khai, Thạch Thán có hẳn khu chăn nuôi lợn tập trung “liên kết” nhiều trang trại, kinh phí đầu tư xây dựng hạ tầng khoảng 1,4-2 tỷ đồng, nuôi 1.000-2.000 đầu lợn/trang trại. Ngoài việc hỗ trợ kinh phí, kỹ thuật chăn nuôi cho các chủ trang trại, chính quyền địa phương đầu tư làm đường giao thông, đường điện, hệ thống kênh mương ở khu vực trang trại chuyển đổi.

Song, để tiến hành xây dựng khu chăn nuôi tập trung, Nhà nước, chính quyền địa phương cũng cần có những quy định và hướng dẫn hết sức cụ thể. Nhiều địa phương  vẫn còn quan niệm hết sức đơn giản, chăn nuôi tập trung là gom các hộ nuôi nhỏ lẻ vào một khu đồng bãi nào đó. Vì vậy, một số khu chăn nuôi tập trung đang biến thành gia trại hoặc khu “kinh tế mới”. Bên cạnh đó, việc quy hoạch khu chăn nuôi tập trung còn nhiều khó khăn. Một số địa phương đã có chính sách dồn điền, đổi thửa để dành đất cho chăn nuôi tập trung, nhưng các hộ có đất lại không có khả năng tài chính, không có kinh nghiệm chăn nuôi. Ngược lại, các hộ có vốn lại không có đất. Hơn nữa, đất đã chuyển đổi vào khu chăn nuôi tập trung, không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không được thế chấp, vay vốn ngân hàng.

Bên cạnh đó, ngoài việc quy hoạch đất, cần quy hoạch lại các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi; nhà máy chế biến, giết mổ gia súc và gia cầm tập trung, công nghiệp; xây dựng các kho, cảng, giúp cho việc vận chuyển, dự trữ nguyên liệu thức ăn và thức ăn chăn nuôi… sao cho phù hợp nhất.

1.3          Thiếu con giống và nguồn cung cấp con giống chất lượng

Dân gian có câu: “Tốt nái tốt một ổ, tốt đực tốt cả đàn”. Kinh nghiệm đó đủ cho thấy khâu giống quan trọng như thế nào trong chăn nuôi. Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực tế sản xuất giống ở Việt Nam, người lạc quan nhất cũng phải lo ngại khi số lượng không đảm bảo, chất lượng yếu kém, chưa chú trọng quy mô phát triển…

Năm 2007, hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn (còn gọi là bệnh tai xanh) xảy ra lần đầu tiên trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh khiến lợn ốm, chết hàng loạt, đặc biệt, đàn lợn nái giảm đáng kể. Sau dịch, lợn giống trở nên khan hiếm nên giá tăng đến 50-60%. Các hộ chăn nuôi quy mô trang trại còn tự chủ được nguồn giống, với hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, điều này thực sự không dễ dàng.

Trong thời điểm khan hiếm con giống như hiện nay, chọn được con giống đạt yêu cầu về trọng lượng, dáng vóc đã khó nói gì đến phẩm cấp, nguồn gốc bố mẹ ra sao. Theo ông Vũ Thái Ninh, Trưởng phòng Chăn nuôi (Sở Nông nghiệp và PTNT Bắc Ninh), ngoài nguyên nhân từ bệnh tai xanh còn do trên địa bàn tỉnh chưa có cơ sở giống bảo đảm chất lượng. Hiện, nhu cầu về giống của người chăn nuôi khoảng 850.000 con/năm, trong khi tỉnh chỉ có 1 xí nghiệp, 2 cơ sở gia công cho Công ty cổ phần CP và 5 cơ sở tư nhân sản xuất giống lợn hướng nạc với tổng số 5.000 nái ông bà, bố mẹ. Số lợn giống mà các cơ sở trên cung ứng được khoảng 100.000 con/năm. Mặt khác, số liều tinh lợn ngoại chất lượng cao mà các cơ sở truyền giống sản xuất mới đáp ứng khoảng 65% nhu cầu, còn lại được nhân giống từ đàn lợn nuôi tự do trong dân. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng bệnh, khai thác giống không theo đúng quy trình kỹ thuật nên chất lượng truyền giống kém.
Tương tự như đàn lợn, chất lượng bò giống của Bắc Ninh cũng còn nhiều vấn đề phải bàn. Thực tế cho thấy, bò lai Zê-bu có ưu thế hơn hẳn bò vàng địa phương. Tuy nhiên, việc nhân rộng đàn bò lai dù đã thực hiện nhiều năm nhưng vẫn không cho kết quả như mong muốn. Nguyên nhân do số liều tinh bò lai thụ tinh nhân tạo chỉ dừng ở mức khoảng 10.000 liều/năm, đáp ứng 80% nhu cầu, phần còn lại được nhân giống từ đàn bò cóc địa phương. Trong khi đó, bê lai Zê-bu ra đời hầu hết được bán làm bò thịt, ít hộ giữ lại để thay thế bò cóc. Theo số liệu của Phòng Chăn nuôi, bò lai Zê-bu trên địa bàn Bắc Ninh mới chiếm 78% tổng đàn.

Nguồn giống kham hiếm do ảnh hưởng của dịch bệnh, thời gian qua, người dân các tỉnh miền Trung phải lao đao vì con giống khan hiếm, đẩy giá lên cao khiến nỗ lực khôi phục đàn gia súc-gia cầm bị ảnh hưởng. Tại Phú Yên, đàn lợn đang giảm mạnh, việc phát triển đàn gặp khó khăn. Thế nhưng, đến nay, một chương trình sản xuất lợn giống đủ mạnh vẫn chưa được hình thành, và nhiều nông dân dù muốn nuôi nhưng đành để chuồng trống. Năm 2007, toàn tỉnh có hơn 129.000 con (chưa kể lợn sữa) nhưng nay, chỉ còn hơn 39.000 con, bằng 1/3 so với mọi năm. Nguyên nhân là do người chăn nuôi gặp khó khăn trong việc phát triển đàn trở lại vì con giống quá hiếm. Hiện, giá lợn giống đã tăng lên 39.000-40.000 đồng/kg, gấp 2 lần so với năm trước.

Trong khi nguồn giống khan hiếm, người dân khó khăn trong việc tìm con giống để khôi phục đàn thì dự án xây dựng trung tâm giống lợn tại Phú Yên vẫn chưa thể triển khai, mặc dù đã được tỉnh đồng ý về chủ trương xây dựng với vốn đầu tư khoảng 5 tỉ đồng, quy mô 200 lợn nái giống siêu nạc. Thực tế cho thấy, những năm qua, trung tâm chỉ đủ khả năng cung cấp 100-200 con lợn giống và trên dưới 5.000 liều tinh/năm cho người chăn nuôi.

Giai đoạn 2000-2005, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã đầu tư 1.040 tỷ đồng cho 129 dự án xây dựng trung tâm giống ở các địa phương. Tuy nhiên, đến nay, nhiều trung tâm giống vẫn trong tình trạng thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật và kinh phí nên các dự án phải kéo dài và chưa hoàn thiện hệ thống quản lý. Theo đó, chất lượng con giống chưa được kiểm soát chặt chẽ.

Theo ông Hoàng Kim Giao, Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và PTNT), để có giống vật nuôi tốt, cần thiết phải có một giải pháp chặt chẽ hơn. Trong Chiến lược phát triển ngành đến năm 2020, Cục sẽ tiếp tục triển khai các nội dung của Chương trình giống và nuôi giữ giống gốc, đảm bảo đến năm 2010, có trên 70% con giống đã được chọn lọc và đánh giá bình tuyển.

Về giống bò, cần triển khai trên diện rộng chương trình cải tiến, nâng cao tầm vóc đàn bò theo hướng Zê-bu hoá trên cơ sở phát triển nhanh mạng lưới thụ tinh nhân tạo phục vụ nhân giống và sử dụng bò đực giống đã qua chọn lọc ở những nơi chưa có điều kiện làm thụ tinh nhân tạo; chọn lọc và nhập nội một số giống bò có khả năng thích nghi với điều kiện sinh thái trong nước để tạo đàn cái nền phục vụ cho lai tạo giống bò sữa và bò thịt chất lượng cao; nhân thuần các giống bò Zê-bu, bò sữa cao sản nhập nội đã thích nghi với điều kiện chăn nuôi trong nước; khuyến khích bảo tồn và phát triển các giống bò địa phương ưu tú như bò U, bò đầu rìu, bò Mông,… ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La,… nhằm từng bước nâng cao chất lượng các giống bò và tăng cường độ đa dạng sinh học.
Đối với các giống vật nuôi khác, cần chọn lọc đàn trâu, dê, cừu trong sản xuất tạo đàn cái nền và đực giống tốt, thực hiện giải pháp đảo đực giống giữa các vùng; quản lý giống lợn, gia cầm theo hình tháp gắn với từng vùng sản xuất, thương hiệu sản phẩm; chọn lọc, cải tiến, nâng cao năng suất, chất lượng các giống lợn, gia cầm địa phương có nguồn gien quý; nhập nội các giống lợn, gia cầm cao sản trong nước chưa có hoặc còn thiếu; xây dựng và sử dụng các công thức lai giống phù hợp cho mỗi địa phương. Mở rộng mạng lưới và tiêu chuẩn hoá các cơ sở, chất lượng đực giống của hệ thống thụ tinh nhân tạo lợn, hạn chế việc nhân giống lợn. Cần tổ chức đánh giá bình tuyển, loại thải lợn đực giống kém chất lượng trong sản xuất.

Về kỹ thuật nuôi, các cơ sở phải có chuồng trại được quy hoạch khoa học, thiết kế phù hợp với các điều kiện sinh trưởng, phát triển của vật nuôi; nhất thiết phải có hệ thống vệ sinh phòng dịch thú y và xử lý môi trường. Đối với các cơ sở chăn nuôi trang trại, công nghiệp, cần áp dụng công nghệ tự động hoá từng khâu và toàn bộ quá trình sản xuất; các cơ sở chăn nuôi phải có sổ sách theo dõi quản lý, lưu giữ số liệu về giống, thuốc thú y và dịch bệnh; áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý; cơ sở giống nhất thiết phải có sổ theo dõi, phần mềm tin học quản lý được các cơ quan chức năng công nhận. Nếu làm được như vậy, ngành chăn nuôi nước ta sẽ tránh được dịch bệnh, và nông dân không phải “rơi nước mắt” vì thua lỗ.

PGS-TS. Lê Thanh Hải, Phó chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam:Muốn chăn nuôi bò hiệu quả phải có giống tốt. Giống là khâu quan trọng quyết định sự thành bại trong chăn nuôi. Điều đó càng đúng với bò sữa. Đây là vấn đề thời sự hiện nay. Nước ta không có truyền thống nuôi bò sữa, nguồn giống phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu. Tuy nhiên, chúng ta đã nhận được nhiều bài học do nhập con giống không phù hợp với điều kiện khí hậu và trình độ của người chăn nuôi.

Để ngành chăn nuôi bò sữa phát triển, cần đầu tư chiều sâu về con người, kỹ thuật, thiết bị máy móc chuyên dùng có trọng điểm; đủ kinh phí ổn định; có chính sách phù hợp cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật tâm huyết, đầy trách nhiệm theo mục tiêu dài hạn và ngắn hạn của chương trình cải thiện giống có chu kỳ.

1.4          Mất cân đối cung – cầu thức ăn chăn nuôi

Không chỉ hứng chịu sự “càn quét” của dịch bệnh, nông dân còn phải “giơ đầu chịu báng” trước tốc độ phi mã của giá thức ăn chăn nuôi (TACN). Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do chúng ta chưa chủ động được nguyên liệu chế biến, phải phụ thuộc vào nhập khẩu.

Từ đầu năm 2008 đến nay, đã có tới 9 lần các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh TACN công bố tăng giá sản phẩm, trung bình khoảng 40-60%, có loại tới 70-80%. Hiện thức ăn hỗn hợp các loại có giá 6.000-8.000 đồng/kg, thức ăn đậm đặc 12.000-14.000 đồng/kg. Mỗi tháng, các doanh nghiệp điều chỉnh giá một đến hai lần, thậm chí, có tháng điều chỉnh tới bốn lần (mỗi lần tăng 100-300 đồng/kg).

Anh Lữ Hoàng Giang ở ấp Thới Hòa C, phường Thới Long (quận Ô Môn – Cần Thơ) cho biết: “Tôi không dám đầu tư nuôi lợn vì chi phí quá cao. Chỉ tính tiền mua giống trên 700.000 đồng/con, rồi thức ăn, tấm cám… tất cả đều đã tăng cao so với trước”. Cùng chung quan điểm đó, anh Văn Thạo ở đội 12, xã Vĩnh Khúc (Văn Giang – Hưng Yên) bức xúc: “Giá cám tăng cao nên chăn nuôi chẳng có lãi. Tôi đã trót nuôi nên cố hết lứa này rồi ngừng lại xem tình hình thế nào”.

Tại Bình Định, người chăn nuôi đang “kêu trời” khi từ đầu năm đến nay, giá TACN liên tục tăng. Tăng nhiều nhất là sản phẩm của các hãng D3, DH, CP, Cargill, Con Cò, trung bình 10.000-30.000 đồng/bao, tùy loại. Cụ thể, thức ăn D3 dành cho vịt đẻ hiện có giá 250.000 đồng/bao 40kg, tăng 30.000 đồng; loại cho gà thịt 260.000 đồng/bao 40kg, tăng 30.000 đồng. Thức ăn Cargill dành cho lợn giống 200.000-235.000 đồng/bao 25kg, tăng 20.000-25.000 đồng…

Bà Bùi Thị Oanh, Trưởng phòng Chăn nuôi – Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và PTNT) cho biết, năm 2006, cả nước có 241 doanh nghiệp (DN) sản xuất TACN, năm 2007 chỉ còn 214 đơn vị (giảm 11%). Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2008, có khoảng 30-40 DN tạm ngừng hoạt động. Nguyên nhân là do DN thiếu vốn và giá nguyên liệu quá cao. Với gần 200 DN hoạt động, 6 tháng đầu năm, chúng ta chỉ sản xuất được 4,1 triệu tấn TACN, đáp ứng 78,8% nhu cầu, số còn lại phải nhập khẩu. Đây chính là nguyên nhân khiến giá TACN bị đẩy lên cao trong thời gian qua.

Có một thực tế là hầu hết các DN sản xuất TACN có vốn đầu tư nước ngoài và các DN lớn trong nước đã đạt tiêu chuẩn ISO nhưng lại chưa có quản lý chất lượng GMP (hệ thống đánh giá, quản lý, thông tin rủi ro trong dây chuyền sản xuất) dẫn đến tình trạng chất lượng TACN chưa cao. Việc phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu các nguyên liệu quan trọng như premix, chất phụ gia và các chất bổ sung khác khiến nông dân gánh chịu “cơn bão” tăng giá TACN.

Một nguyên nhân khác dẫn đến giá TACN tăng là do ngành nông nghiệp thiếu khả năng quy hoạch phát triển các nguồn nguyên liệu thô cũng như công nghiệp phụ trợ cho chế biến TACN. Năm 2007, nhu cầu về nguyên liệu TACN vào khoảng 17 triệu tấn, trong đó chúng ta chỉ chủ động được 13,3 triệu tấn, nhập khẩu 3,7 triệu tấn (tương đương 20%) và là những mặt hàng có giá tăng cao hàng chục phần trăm. Việt Nam là nước nông nghiệp nhưng ngành sản xuất TACN đang gặp phải nghịch lý khi không chủ động được nguồn nguyên liệu chủ chốt có nguồn gốc từ nông nghiệp như ngô, đậu tương, thức ăn thô xanh… Với trên 1 triệu hecta ngô, năng suất bình quân 3,6 tấn/ha, sản lượng trên 3,6 triệu tấn/năm nhưng các DN vẫn phải nhập khẩu hàng trăm ngàn tấn/năm. Các nguyên liệu khác như: bột cá 60% đạm, vi khoáng, amino acid cũng trong tình trạng tương tự. Đây cũng là nguyên nhân khiến giá TACN của Việt Nam luôn cao hơn so với các nước trong khu vực 10-20%.

Trong chăn nuôi bò, thức ăn thô xanh đóng vai trò rất quan trọng. Trên thực tế, nhiều địa phương đã xây dựng dự án, hỗ trợ tiền cho người chăn nuôi nhưng lại không tính đến việc phát triển đồng cỏ. Trong khi diện tích cỏ tự nhiên ngày càng bị co hẹp do tốc độ đô thị hóa và hoang mạc hóa. Chất lượng cỏ tự nhiên cũng bị suy giảm. Theo thống kê, diện tích cỏ trồng tăng 47,07%/năm (giai đoạn 2001-2006) nhưng sản lượng chỉ đạt 6,79 nghìn tấn, trong khi nhu cầu của đàn gia súc là 112,89 nghìn tấn, tức còn thiếu 106,1 nghìn tấn. Cỏ trồng ở các địa phương chủ yếu là cỏ voi, lượng cỏ giàu đạm như cỏ họ Đậu, cỏ hỗn hợp,… còn rất ít. Nguồn lợi phụ phẩm công, nông nghiệp tuy dồi dào (57.320,48 triệu tấn các loại) nhưng khả năng tận dụng làm TACN chỉ khoảng 36,5%. Các chợ rơm được thành lập ở khu vực phía Nam không phải để cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc mà để… trồng nấm và lót hàng. Tuy nhiên, thay vì phải chú trọng đầu tư vùng nguyên liệu, hệ thống đồng cỏ rồi mới tính đến phát triển đàn gia súc thì ở ta đã làm ngược quy trình. Điều này chẳng khác gì “xây nhà từ nóc”. Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Lê Bá Lịch cho rằng, chúng ta đang thiếu khả năng quy hoạch phát triển toàn diện các nguồn nguyên liệu thô cũng như công nghiệp phụ trợ cho ngành TACN. Vì vậy nguồn nguyên liệu TACN trong nước chỉ đáp ứng được 68-70% so với nhu cầu.

Để chủ động được nguồn nguyên liệu, tháo gỡ khó khăn, theo ông Hoàng Kim Giao, Cục trưởng Cục chăn nuôi, việc chủ động, nâng cao hiệu suất sử dụng TACN sẽ góp phần đảm bảo thực hiện mục tiêu của Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020, tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp đạt trên 42%, với sản lượng thịt xẻ các loại là 5.500 ngàn tấn, trong đó thịt lợn chiếm 63%, thịt gia cầm 32%, thịt bò 4%. Chăn nuôi, trước tiên cần khống chế dịch bệnh, tăng cường sản xuất nguyên liệu thức ăn trong nước, có chính sách ưu đãi đối với DN, đơn giản hoá các thủ tục nhập khẩu, thay đổi chính sách tiền tệ… Trước mắt, Cục sẽ tập trung vào các giải pháp cụ thể nhằm tạo nguồn thức ăn giàu năng lượng như cám, gạo, ngô; thức ăn thô xanh thông qua việc xây dựng những vùng nguyên liệu tập trung, chuyên canh, phát triển các mô hình tận dụng phụ phẩm nông nghiệp (khoảng 60 triệu tấn/năm) để bổ sung nguồn thức ăn.

Đại diện nhiều DN cũng cho rằng, việc cần thiết lúc này là tăng cường xây dựng vùng nguyên liệu. Khó khăn lớn nhất của DN vẫn là vốn. Ngoại tệ, khô dầu tăng ảnh hưởng rất nhiều đến giá TACN. Vì vậy, chúng ta cần chủ động nguồn nguyên liệu và hy vọng Nhà nước sẽ giảm thuế suất đối với các mặt hàng TACN, ông Nguyễn Tấn Lộc, Giám đốc điều hành DNTN Thức ăn chăn nuôi Thành Lợi nhận định.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Vũ Văn Tám cho biết: Trước mắt, cần tăng cường sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có, rà soát bổ sung, điều chỉnh, xây dựng mới quy hoạch sản xuất TACN gắn với vùng nguyên liệu, phát triển các giống cây nguyên liệu TACN đáp ứng yêu cầu về năng suất, chống chịu dịch bệnh… Bên cạnh đó, cần đa dạng nguồn nguyên liệu TACN nhập khẩu thông qua việc cho phép các DN nước ngoài nhập khẩu và phân phối trực tiếp tới các DN Việt Nam, xây dựng sàn giao dịch TACN, tăng cường năng lực dự trữ các nguyên liệu như: ngô, khô dầu đậu tương, bột cá… trong thời gian dài. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn sử dụng TACN công nghiệp nhằm tăng tỷ lệ sử dụng loại thức ăn này trong chăn nuôi; điều chỉnh cơ cấu vật nuôi để tận dụng tối đa nguồn thức ăn sẵn có, giảm đầu tư, giá thành cho các loại thực phẩm thịt, sữa, trứng…
Bộ cũng sẽ kiến nghị Chính phủ đưa TACN vào danh mục các mặt hàng thiết yếu; đề nghị ngân hàng có chính sách cho vay ưu đãi với nông dân và DN; s ngành hải quan tạo điều kiện về thủ tục nhanh nhất cho DN. Ngoài ra, Cục Chăn nuôi phải tăng cường thông tin dự báo trên các phương tiện truyền thông đại chúng về giá. Còn các DN phải công bố giá và đảm bảo chất lượng cho người chăn nuôi…

Với những giải pháp trên, hy vọng, thời gian tới, thị trường TACN sẽ ổn định, nông dân sẽ không còn phải lao đao trong cơn “bão giá”.

1.5          Ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi

Chỉ tính riêng năm 2007, lượng chất thải từ chăn nuôi khoảng 61 triệu tấn, nhưng chỉ 40% trong số này được xử lý, còn lại xả trực tiếp ra môi trường.

Theo số liệu của Sở Khoa học và Công nghệ Nam Định và Hà Tây cũ, qua khảo sát tại xã Trực Thái (Trực Ninh – Nam Định) có 91,13% hộ nuôi lợn và xã Trung Châu (Đan Phượng -Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội) với 93,33% số hộ nuôi lợn, quy mô 3-43 con/hộ thấy mức độ ô nhiễm đang ở tình trạng báo động. Khí độc NH3, H2S có trong không khí cao hơn mức cho phép 4,7 lần, nhiễm khuẩn trong chuồng trung bình là 18.675 vi sinh vật (cao hơn tiêu chuẩn của Nga 12 lần), nước thải nhiễm E.Coli và 25% số mẫu nhiễm trứng giun với mật độ 4.025 trứng/500ml nước thải. Hàm lượng COD (nhu cầu ôxy hoá học) là 3.916mg/l, trong khi tiêu chuẩn cho phép chỉ từ 100 đến 400mg/lít. Một ví dụ khác, ở các trại lợn tại xã Đức Sơn (TP. Đồng Hới) của Trung tâm Giống vật nuôi tỉnh Quảng Bình, hàng ngày thải ra lượng chất thải lớn không được xử lý làm 50 hộ dân quanh vùng không thể sử dụng nguồn nước ngầm do có váng vàng, mùi hôi tanh. Tỷ lệ người dân mắc bệnh tiêu chảy, mẩn ngứa, ghẻ lở rất cao. Chăn nuôi lợn ở xã Tô Hiệu (Thường Tín – Hà Nội) với việc xả thẳng phân, nước tiểu lợn ra cống rãnh và hệ thống thoát nước làm môi trường ở đây ô nhiễm nặng nề, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người dân.
Chất gây ô nhiễm môi trường không chỉ là phân mà còn có lượng lớn chất độn chuồng, thức ăn thừa, xác gia súc, gia cầm chết. Ngoài ra, còn có chất thải rắn trong lò mổ như chất thải trong ống tiêu hóa còn máu, mỡ, phủ tạng hoặc sản phẩm bị loại bỏ trong quá trình kiểm soát giết mổ.

 

II. Thách thức về thị trường – vấn đề quản lí giết mổ và vệ sinh an toàn thực phẩm

Thống kê của Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) – Bộ Y tế cho thấy, một trong những nguyên nhân khiến các vụ ngộ độc thực phẩm ngày càng gia tăng là do sản phẩm thịt gia súc, gia cầm không đạt tiêu chuẩn. PGS -TS.Trần Đáng, nguyên Cục trưởng Cục VSATTP nhận định, thực trạng sản xuất, chế biến thực phẩm của ta có quá nhiều vướng mắc, nhất là trong lĩnh vực chăn nuôi và giết mổ gia súc, gia cầm; việc hướng dẫn và quản lý sử dụng thuốc kháng sinh còn lỏng lẻo, tình trạng sử dụng các chất bổ trợ trong thức ăn chăn nuôi khá tuỳ tiện. Về dư lượng kháng sinh trong thức ăn hỗn hợp, tiến hành phân tích 20 mẫu thì có đến 8 mẫu sử dụng kháng sinh. Việc kiểm soát vệ sinh giết mổ còn hạn chế, có quá nhiều cơ sở giết mổ nằm ngoài tầm quản lý của chính quyền địa phương và cơ quan thú y. Điều tra hiện trạng giết mổ 258 trong tổng số 4.703 lò mổ thuộc 43 tỉnh, thành phố, phân tích 630 mẫu thịt cho thấy, 87,5% không đạt tiêu chuẩn.

Hội nghị tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia về VSATTP năm 2008, đã đặt ra nhiều vấn đề về công tác quản lý chất lượng VSATTP đó là:

–       Nhận thức của người sản xuất, thương mại và người tiêu dùng về vấn đề VSATTP còn hạn chế, tỷ lệ nhận thức về VSATTP của người sản xuất năm 2008 đạt 55.7%; nhóm kinh doanh thực phẩm 49.5%; người tiêu dùng 48.6%

–       Hoạt động quản lý VSATTP của các cơ quan quản lý nhà nước đối với thực phẩm còn hạn chế, tỷ lệ gia súc, gia cầm giết mổ được các cơ quan thú y kiểm soát chỉ chiếm 58% (2008).

–       Hệ thống các văn bản pháp lý chưa thống nhất, thậm chí còn chồng chéo, trách nhiệm của các Bộ liên quan chưa rõ ràng.

Trong khi đó, theo báo cáo của Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm – Bộ Y tế, trong năm 2008, toàn quốc xảy ra 205 vụ ngộ độc thực phẩm, với tổng số 7,828 người mắc, 61 người tử vong, trong đó có 66% số vụ chưa xác định được nguyên nhân. Tuy có giảm 43 vụ so với năm 2007 nhưng số người mắc và tử vong lại tăng lên, điều đó cho thấy mức độ nguy hại và khó kiểm soát của các vụ ngộ độc.

Trong Tháng hành động vì chất lượng VSATTP năm 2008, các tỉnh, thành phố đã tổ chức 5,318 đoàn thanh -kiểm tra 182,000 cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm, phát hiện 33,503 cơ sở vi phạm, trong đó có 2,151 cơ sở bị phạt tiền, 237 cơ sở tạm đình chỉ hoạt động. Trong dịp Tết Nguyên đán 2009, các tỉnh kiểm tra 39,898 cơ sở, trong đó có 9,609 cơ sở không đạt tiêu chuẩn VSATTP (chiếm 16,04%), đình chỉ hoạt động 48 cơ sở, 976 cơ sở phải tiêu hủy sản phẩm.

Đối với lĩnh vực VSATTP đối với sản phẩm động vật tươi sống, một khảo sát thực hiện trong năm 2005 cho thấy tỷ lệ thịt tươi bị nhiễm coliforms quá mức quy định ở thịt gà và thịt bò bán ở các chợ tại Hà Nội tương ứng là 53,3% và 100%. Tỷ lệ này ở thành phố Hồ Chí Minh là 40% đối với thịt gà và 13,3% đối với thịt lợn tại các cơ sở giết mổ. Trung bình thì tỷ lệ ô nhiễm vi sinh vật quá mức cho phép trong 3 loại thịt tươi (thịt lợn, thịt gà, thịt bò) tại Hà nội là 80%, cao hơn so với 25,3% tại TP Hồ Chí Minh. Một khảo sát thực hiện trong năm 2005 cho thấy tỷ lệ thịt tươi bị nhiễm coliforms quá mức quy định ở thịt gà và thịt bò bán ở các chợ tại Hà Nội tương ứng là 53,3% và 100%. Tỷ lệ này ở thành phố Hồ Chí Minh là 40% đối với thịt gà và 13,3% đối với thịt lợn tại các cơ sở giết mổ. Trung bình thì tỷ lệ ô nhiễm vi sinh vật quá mức cho phép trong 3 loại thịt tươi (thịt lợn, thịt gà, thịt bò) tại Hà nội là 80%, cao hơn so với 25,3% tại TP Hồ Chí Minh.

Cục quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản – Bộ Nông nghiệp đã tiến hành nghiên cứu điều tra về vệ sinh an toàn trong nông sản thực phẩm, dự án đã tập trung vào điều tra điều kiện vệ sinh cơ sở giết mổ, vận chuyển, buôn bán sản phẩm động vật tươi sống. Kết quả cho thấy tại các cơ sở giết mổ, kinh doanh thịt tươi sống đa phần không đảm bảo VSATTP, nguồn sản phẩm không rõ ràng, điều kiện giết mổ, kinh doanh không bảo đảm.

Trên thực tế, việc quản lí giết mổ và chất lượng VSATTP là yếu tố quan trọng quyết định đến hành động của người chăn nuôi, nếu chúng ta quản lí tốt hoạt động này thì việc thực hiện các chính sách về thú y, môi trường và VSATTP sẽ được quan tâm, góp phần tích cực trong việc phát triển chăn nuôi bền vững.

Phần 3: Định hướng phát triển chăn nuôi 2015 và tầm nhìn 2020

I. Mục tiêu và giải pháp chính sách đến năm 2015

1.1  Mục tiêu và định hướng

1.     Mục tiêu chung

Tổ chức lại sản xuất ngành chăn nuôi theo hướng chăn nuôi trang trại, công nghiệp gắn với giết mổ chế biến tập trung công nghiệp; từng bước đưa chăn nuôi nhỏ lẻ vào chuỗi sản xuất thực phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, giảm thiểu ô nhiễm môi trường; đáp ứng đủ nhu câù một số loại thực phẩm thiết yếu cho tiêu dùng trong nước và chuẩn bị điều kiện để xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi.

2.     Định hướng phát triển đến năm 2015

  • Phát triển nhanh quy mô đàn lợn ngoại theo hướng trang trại, công nghiệp ở nơi có điều kiện về đất đai, kiểm soát dịch bệnh và môi trường; duy trì ở quy mô nhất định hình thức chăn nuôi lợn lai, lợn đặc sản phù hợp với điều kiện chăn nuôi của nông hộ và của một số vùng. Tổng đàn lợn tăng bình quân 2,0% năm, đạt khoảng 33 triệu con, trong đó đàn lợn nuôi trang trại, công nghiệp khoảng 30%.
  • Đổi mới và phát triển chăn nuôi gia cầm theo hướng trang trại, công nghiệp và chăn nuôi chăn thả có kiểm soát. Tổng đàn gà tăng bình quân trên 5-6% năm, đạt khoảng 260 triệu con, trong đó đàn gà nuôi công nghiệp chiếm khoảng 30%. Không khuyến khích tăng tổng đàn thủy cầm, cần phát triển theo hướng thay đổi cơ cấu giống, cơ cấu chăn nuôi: tăng quy mô chăn nuôi thủy cầm theo hướng công nghiệp chiếm trên 20% và chăn thả có kiểm soát.
  • Tăng đàn bò sữa bình quân trên 11% năm, đạt khoảng 350 ngàn con, trong đó 100% số lượng bò sữa được nuôi thâm canh và bán thâm canh.
  • Tăng đàn bò thịt bình quân 4 % năm, đạt khoảng 10 triệu con, trong đó bò lai đạt khoảng 45%.
  • Ổn định đàn trâu với số lượng khoảng 3,1 triệu con, nuôi tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên.
  • Các loại vật nuôi khác, tùy theo điều kiện cụ thể của từng nơi và nhu cầu thị trường, các địa phương có những định hướng và chính sách phát triển phù hợp.
  • Phát triển mạnh ngành công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi trên cơ sở mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.

–             Chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp để trồng cỏ thâm canh và các loại cây nguyên liệu thức ăn chăn nuôi bằng các giống năng suất cao, giàu đạm. Khuyến khích các trang trại quy mô lớn tự chế biến nguyên liệu trong nước và tận dụng triệt để nguồn phụ phẩm nông, công nghiệp làm thức ăn chăn nuôi theo các công thức đã có.

–             Sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp: tăng bình quân 8%/năm, đạt khoảng 16 triệu tấn.

  • Phát triển hệ thống giết mổ, chế biến có quy mô phù hợp với công nghệ hiện đại, thiết bị tiên tiến và gắn với vùng sản xuất chăn nuôi hàng hóa và đa dạng hoá các mặt hàng thực phẩm chế biến đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.
  • Khuyến khích các cơ sở chế biến nhỏ, thủ công áp dụng quy trình, thiết bị chế biến hợp vệ sinh thú y, an toàn vệ sinh thực phẩm.
  • Củng cố, nâng cao năng lực kiểm soát dịch bệnh của hệ thống thú y từ Trung ương đến địa phương, nhất là hệ thống thú y cơ sở.

1.2   Giải pháp chính sách

a)     Chính sách quy hoạch sản xuất chăn nuôi

Quy hoạch chăn nuôi cần xác định rõ vùng, khu vực và quỹ đất dành cho phát triển chăn nuôi trang trại, công nghiệp giết mổ chế biến thực phẩm và trồng cây thức ăn chăn nuôi phù hợp với quy hoạch chung về kinh tế xã hội của ngành và từng địa phương.

Trung ương

–          Quy hoạch tổng thể ngành chăn nuôi trong phạm vi cả nước hình thành các vùng chăn nuôi trọng điểm đối với những loại vật nuôi chủ yếu như lợn, gia cầm và bò sữa, trâu, bò thịt nhằm phát huy lợi thế về sinh thái, khả năng đầu tư của từng vùng và nhu cầu phát triển cho tiêu dùng trong nước, hướng tới xuất khẩu.

–          Quy hoạch xây dựng các chợ đầu mối, các trung tâm hội chợ giao dịch mua bán vật tư, nguyên liệu chăn nuôi, thú y, đấu giá con giống và các sản phẩm chăn nuôi trong phạm vi vùng, khu vực.

Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

–          Có quy hoạch chi tiết phát triển cho từng loại vật nuôi phù hợp với quy hoạch tổng thể của ngành và phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương.

–          Quy hoạch, xây dựng, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng và trang thiết bị các chợ tiêu thụ thực phẩm tươi sống đảm bảo vệ sinh môi trường và an toàn vệ sinh thực phẩm, trước hết là ở các đô thị và khu công nghiệp.

b)     Chính sách đất đai

Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm trang trại, công nghiệp; các cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm tập trung công nghiệp và các cơ sở sản xuất-chế biến nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y được hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi giao đất, thuê đất theo qui định của phát luật về đất đai, được hưởng ưu đãi cao nhất về các chính sách đất đai của từng địa phương.

Trong trường hợp phải thuê đất sản xuất chăn nuôi:

–          Miễn hoặc giảm tối thiểu 50% tiền thuê đất phải nộp ngân sách nhà nước trong 5 năm đầu và giảm tối thiểu 30% của 5 năm tiếp theo cho các cơ sở chăn nuôi nằm trong vùng quy hoạch khuyến khích phát triển chăn nuôi.

–          Được giảm tối thiểu 50% tiền thuê đất phải nộp ngân sách nhà nước trong 5 năm đầu đối với cơ sở, doanh nghiệp phục vụ phát triển chăn nuôi nằm trong vùng được quy hoạch khuyến khích phát triển, bao gồm các lĩnh vực: giết mổ, chế biến thực phẩm và sản xuất nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y thuộc nhóm khuyến khích phát triển.

c)     Chính sách đầu tư tín dụng

i) Ngân sách Nhà nước hỗ trợ hạ tầng cơ sở khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, công nghiệp và giết mổ, chế biến tập trung công nghiệp, cụ thể:

–          Hỗ trợ tối thiểu 50% kinh phí giải phóng mặt bằng và xây dựng hạ tầng phát triển các khu chăn nuôi tập trung bao gồm đường giao thông cấp 4, điện đến chân hàng rào của khu chăn nuôi tập trung. Khu chăn nuôi tập trung là khu quy hoạch dành riêng cho phát triển chăn nuôi đảm bảo các yêu cầu về vệ sinh phòng dịch và môi trường. Việc xác định quy mô của khu chăn nuôi được hỗ trợ, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương do UBND tỉnh, TP trực thuộc Trung ương quy định, nhưng phải đảm bảo nguyên tắc được sử dụng lâu dài cho phát triển chăn nuôi, ít nhất là 20 năm.

–          Hỗ trợ tối thiểu 30% kinh phí đầu tư cấp nước chăn nuôi và xử lý môi trường trong nội vùng cho các trang trại chăn nuôi, các cơ sở giết mổ tập trung, công nghiệp không nằm trong các khu chăn nuôi tập trung nhưng phải được quy hoạch và có thời gian khai thác ít nhất từ 15 năm trở lên.

–          Hỗ trợ tối thiểu 30% kinh phí đầu tư cho các trạm thụ tinh nhân tạo lợn với quy mô tối thiểu 15 đực giống sản xuất tinh thường xuyên/trạm; các cơ sở sản xuất tinh đông lạnh trâu, bò đực giống.

–          Hỗ trợ tối thiểu 50% kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng chợ đấu giá con giống và sản phẩm chăn nuôi đối với lợn và trâu bò tại một số vùng có chăn nuôi phát triển.

–          Hỗ trợ, tối thiểu 30 % lãi suất tín dụng trong 2 năm đầu cho các cơ sở trang trại mới mua lợn giống ngoại phát triển sản xuất; Hỗ trợ tối thiểu 50% lãi suất tín dụng trong 3 năm đầu cho các cơ sở giết mổ chế biến công nghiệp mua trang thiết bị đầu tư mới hoặc thay đổi dây truyền công nghệ tiên tiến hơn.

ii) Đối với các cơ sở chăn nuôi và giết mổ, chế biến gia súc gia cầm phải di dời đến địa điểm theo qui hoạch, ngoài những chính sách ưu tiên trong tiết a khoản 3 Điều này, còn được hưởng các chính sách hỗ trợ tại Quyết định số 74/2005/QĐ-TTg ngày 06/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ.

iii) Ngân sách nhà nước hàng năm ưu tiên cho triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ về chăn nuôi, thú y; chương trình phát triển giống vật nuôi bao gồm cả động vật rừng và công tác nuôi giữ giống gốc vật nuôi.

iv) Ngân sách nhà nước, kết hợp với những nguồn kinh phí khác đảm bảo cho việc hoàn thiện và hoạt động của hệ thống khảo kiểm nghiệm, kiểm định đánh giá, công nhận chất lượng giống, thức ăn chăn nuôi và thuốc thú y.

d)     Chính sách thuế

–          Áp dụng khung thuế ưu đãi cao nhất về các loại thuế đối với các cơ sở, doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực giết mổ, chế biến thực phẩm, kinh doanh chợ đấu giá con giống và các sản phẩm chăn nuôi, sản xuất nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y mà nhà nước khuyến khích phát triển.

–          Miễn 5 năm đầu thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp của 5 năm tiếp theo cho các các cơ sở, doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực giết mổ, chế biến tập trung, công nghiệp.

–          Miễn 2 năm đầu thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp của 3 năm tiếp theo cho các các cơ sở, doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nguyên liệu thức ăn chăn nuôi mà trong nước khuyến khích phát triển, như: sản xuất các loại khô dầu, chế biến bột cá, bột thịt xương, bột máu, khoáng, vitamin và chế biến các loại phụ phẩm nông công nghiệp làm thức ăn chăn nuôi.

e)     Xúc tiến thương mại

–          Hỗ trợ tối thiểu 30% kinh phí cho các doanh nghiệp, hiệp hội tham gia hoạt động hội chợ ở trong, ngoài nước nhằm giới thiệu, tiêu thụ các sản phẩm chăn nuôi.

–          Trong trường hợp cần thiết, ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ lãi suất tín dụng cho các doanh nghiệp thu mua các sản phẩm chăn nuôi chủ lực (thịt lợn, thịt gia cầm và trứng) dự trữ để bình ổn thị trường và điều tiết sản xuất.

f)      Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về chăn nuôi  

Củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức ngành chăn nuôi từ Trung ương đến các địa phương. Hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý ngành chăn nuôi:

–          Đầu tư, xây dựng và hoàn thiện hệ thống trung tâm khảo kiểm nghiệm, kiểm định giống và thức ăn chăn nuôi quốc gia, bao gồm một trung tâm quốc gia và các trung tâm vùng, đảm bảo thuận lợi nhất cho việc phối hợp với các địa phương trong các hoạt động kiểm soát chất lượng con giống và thức ăn chăn nuôi.

–          Hoàn thiện hệ thống thống kê, giám sát chuyên ngành cảnh báo chất lượng và thị trường các sản phẩm chăn nuôi. Xây dựng hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn, hàng rào kỹ thuật về chăn nuôi.

i)      Sắp xếp và nâng cao hiệu quả của chăn nuôi nông hộ

Những chính sách hỗ trợ chăn nuôi nông hộ trong thời gian tới cần tập trung gắn chăn nuôi nhỏ lẻ vào các chuỗi sản xuất thực phẩm thông qua các hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã, hệ thống chăn nuôi gia công của các doanh nghiệp đảm bảo nâng cao hiệu quả, khả năng kiểm soát dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm đồng thời tạo điều kiện để các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ đưa dần chăn nuôi ra khỏi khu dân cư và phát triển theo mô hình chăn nuôi trang trại.

– Ngân sách nhà nước hỗ trợ cho đào tạo nghề, tập huấn kỹ thuật, xây dựng mô hình để các hộ chăn nuôi tiếp cận được với các thông tin thị trường, kỹ thuật và quản lý sản xuất tiên tiến phát triển chăn nuôi hoặc chuyển đổi sản xuất. Ngân sách cho khuyến nông ngoài hỗ trợ các hộ chăn nuôi nhỏ biết cách làm ăn cần chu ý khuyến khích phát triển các mô hình hộ lớn, tổ hợp tác, hợp tác xã, nhóm nông dân chăn nuôi lớn và các cơ sở giết mổ, chế biến thực phẩm, thức ăn chăn nuôi.

– Ngân hàng Chính sách và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dành vốn cho các hộ chăn nuôi vay để đầu tư cải tạo chuồng trại, mua con giống ban đầu phát triển sản xuất. Ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu 30% lãi suất của các gói vay này, khuyến khích đối tượng đứng vay là các hợp tác xã, nhóm hộ được hình thành từ các hộ chăn nuôi.

– Hàng năm, ngân sách nhà nước đảm bảo cho các hoạt động kiểm soát chất lượng con giống nhất là đối với việc bình tuyển loại thải trâu, bò, lợn đực giống trong sản xuất; kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi và thuốc thú y.

Hỗ trợ kinh phí cho các chủ hộ chăn nuôi mua lợn đực, nái giống ngoại với mức 2 triệu đồng/nái và 4 triệu đồng/đực giống. Số lượng hỗ trợ tối đa không quá 2 lợn nái hoặc 1 lợn đực giống/hộ.

– Ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu 30% kinh phí để các hộ chăn nuôi xây dựng hầm biogas hoặc thiết bị khác xử lý chất thải chăn nuôi.

– Hỗ trợ kinh phí đào tạo mới dẫn tinh viên thụ tinh nhân tạo giống vật nuôi 2 triệu đồng/người; hỗ trợ kinh phí mua bình đựng Nitơ bảo quản tinh đông viên 5 triệu đồng/bình, dụng cụ thụ tinh nhân tạo 6 triệu đồng/bộ; hỗ trợ 100% kinh phí tinh trâu, bò và 50% tinh lợn cho nhân giống trong các hộ chăn nuôi. Hỗ trợ 100% kinh phí vắc xin và chi phí tiêm phòng của các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở các vùng có nguy cơ cao theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

– Hỗ trợ kinh phí trồng cỏ cho các hộ nông dân phát triển sản xuất cây thức ăn chăn nuôi với mức 2 triệu đồng/ha.

 

  1.  Chiến lược đến năm 2020

2.1 Mục tiêu chung

ü  Đến năm 2020 ngành chăn nuôi cơ bản chuyển sang sản xuất phương thức trang trại, công nghiệp, đáp ứng phần lớn nhu cầu thực phẩm đảm bảo chất lượng cho tiêu dùng và xuất khẩu

ü  Tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp đến năm 2020 đạt trên 42%, trong đó  năm 2010 đạt khoảng 32% và  năm 2015 đạt 38%;

ü  Đảm bảo an toàn dịch bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm, khống chế có hiệu quả các bệnh nguy hiểm trong chăn nuôi.

ü  Các cơ sở chăn nuôi, nhất là chăn nuôi theo phương thức trang trại, công nghiệp và cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm phải có hệ thống xử lý chất thải, bảo vệ và giảm ô nhiễm môi trường.

2.2 Các giải pháp về chính sách

– Quy hoạch sản xuất gắn với lợi thế vùng sinh thái, xây dựng quy hoạch phát triển: lợn, gia cầm, bò sữa, bò thịt

– Đổi mới nghiên cứu khoa học, công nghệ, xã hội hóa các kết quả nghiên cứu khoa học, tiếp tục phát triển chương trình giống cây trồng vật nuôi

– Đầu tư về tài chính và tín dụng cho sản xuất: i) nhà nước tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển vùng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi; ii) thực hiện chính sách hỗ trợ tín dụng cho chăn nuôi

– Chính sách hỗ trợ đất đai cho phát triển chăn nuôi tập trung

– Phát triển thương mại: i) tập trung xây dựng hệ thống tiêu thụ sản phẩm gắn sản xuất – giết mổ – chế biến, đảm bảo vệ sinh thú y và VSATTP; ii) hỗ trợ xúc tiến thương mại

– Xây dựng chương trình phát triển sản xuất và kiểm soát thức ăn chăn nuôi, hỗ trợ phát triển các hình thức chăn nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp, thức ăn chế biến

– Phòng chống dịch bệnh: i) phát triển chăn nuôi an toàn sinh học, quy trình quản lí vệ sinh thú y trong sản xuất, giết mổ, chế biến, thương mại; ii) xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh

– Tổ chức lại chăn nuôi theo hướng sản xuất theo chuỗi liên kết, phát triển doanh nghiệp vừa và lớn trong chăn nuôi, giết mổ, chế biến. Nâng cao vai trò của hiệp hội ngành nghề phù hợp với kinh tế thị trường./.